Cấm kỵ, dân dã, sống động, khiêu khích, bi hài và cả thơ mộng. Đó là những tính từ và còn nhiều hơn nữa khi nói đến bút pháp đa dạng, tài hoa của Hồ Xuân Hương, đặc biệt trong thơ chữ Nôm của bà.
1. Người viết bài này vốn là kẻ say mê sưu tập những ấn phẩm về Hồ Xuân Hương đã xuất bản trong và ngoài nước trong những thế kỷ qua; thấy rằng, hiện đã có hàng trăm công trình nghiên cứu lớn nhỏ, bài viết về thơ cũng như về cuộc đời bạc phận, truân chuyên của bà. Đọc lại thơ Nôm Hồ Xuân Hương, tôi thấy cần nói thêm đôi lời về cách biểu đạt âm thanh trong thơ chữ Nôm của nữ thi sĩ họ Hồ. Nó thể hiện một bút pháp tài hoa, độc đáo có một không hai của một nhà thơ Việt Nam được yêu mến nhất từ trước đến nay.
Âm thanh và vần điệu vốn là một trong những thủ pháp cơ bản để các nhà thơ tạo ra thần thái, cũng như sự hấp dẫn, quyến rũ cho thơ. Nó mang cho người đọc vẻ đẹp của ngôn ngữ, hình ảnh thơ thông qua những xúc cảm âm thanh, nhịp điệu. Tuy vậy, mỗi nhà thơ đều có cách biểu đạt âm thanh riêng, thể hiện phong cách và bản sắc sáng tạo.
2. Điểm nổi bật cần nhắc tới trước tiên là, Hồ Xuân Hương có cách biểu đạt âm thanh trực tiếp chứ không thông qua bất kỳ “phin lọc” ngôn ngữ, hay mượn lối nói ví von, uyển ngữ, nhã ngữ nào. Âm thanh của đời sống sinh động muôn vẻ thường được vang vọng trực tiếp vào từng câu thơ của bà. Tôi tạm gọi đây là những âm thanh “nguyên thủy” được nhà thơ chắt lọc từ đời sống, từ thiên nhiên, vũ trụ. Đa số các nhà thơ tránh lối diễn tả trực tiếp này mà nó thường được thăng hoa, biến tấu qua bàn tay của những “phù thủy ngôn ngữ”. Những âm thanh này thường được các nhà thơ cho khúc xạ, ẩn nấp trong tâm trạng và xúc cảm, hoặc đi kèm với những hình ảnh, thán từ, thán ngữ… Với thơ Hồ Xuân Hương, thi sĩ thường dẫn bạn đọc đi lối tắt. Ta hãy nghe âm thanh của tiếng mõ và tiếng chuông bất ngờ vang lên trong bài thơ Tự tình của bà: “Mõ thảm không khua mà cũng cốc/Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?”. Tiếng “cốc” và “om” quả thật rất tài tình và bất ngờ. Nhất là tiếng “cốc” đã làm người đọc giật mình, phá vỡ quy luật của cảm xúc, mà vang lên đột ngột, lạ lẫm, đầy thách thức. Điều kỳ lạ ở đây là tiếng “cốc” lại vọng ra từ “mõ thảm”, mà trước đó không ai động vào chiếc mõ đó.
Hồ Xuân Hương đã vận dụng tối đa cách nói dân gian, dân dã, để tạo nên những câu thơ sinh động mà mang hàm nghĩa mới cho những từ tượng thanh: “Thương chồng nên phải khóc tì ti” (Khóc chồng làm thuốc), “Gió vật sườn non kêu lắc rắc/Sóng dồn mặt nước vỗ long bong” (Núi Kẽm Trống)…
Hệ thống các từ tượng thanh trong thơ Hồ Xuân Hương như “rúc rích”, “phập phòm”, “lõm bõm”, “lắc rắc”, “long bong”… cho thấy, chúng được phát ra trong tâm thế một kẻ du ca, luôn có ý thức phá vỡ cái nghiêm trang, giả tạo chốn cung đình, khuê các, mà hồn nhiên ăn nằm, cười khóc với nhân gian lấm láp, nhọc nhằn. Qua cách sử dụng từ ngữ nêu trên, nhà thơ cũng cho ta thấy cái tâm trạng, tâm thế của người viết thật trẻ trung, hóm hỉnh và tinh nghịch.
Có một số câu thơ của Hồ Xuân Hương không nằm trong hệ thống các từ tượng thanh, nhưng khi đọc lên ta lại thấy vang vọng những âm thanh được phát ra từ những hình ảnh táo bạo, lạ lùng: “Tên sẵn bút đề dường chĩnh chện/Trống mang dùi cắp đã phanh phanh” (Duyên kỳ ngộ).
Nghệ thuật sử dụng âm thanh trong thơ ca vốn mang đặc trưng vùng miền, rộng hơn là trong phạm vi cộng đồng, dân tộc. Qua khảo sát cho thấy, phần lớn những từ tượng thanh trong tiếng Việt đều có hình thức láy, thí dụ: oa oa, oe oe, ti tỉ, oai oái, chí chóe… Nhưng trong thơ Hồ Xuân Hương, ngoài những từ láy, ta thấy tác giả còn dùng từ đơn âm tượng thanh rất độc đáo, như “cốc”, “om”, “phòm”…
3. Trong bất kỳ ngôn ngữ nào, các từ tượng thanh thường được tạo ra trên cơ sở âm và nghĩa. Bản tính của từ tượng thanh cho thấy cái vỏ vật chất âm thanh của từ thường gợi ra nội dung ý nghĩa. Tuy nhiên, vỏ vật chất âm thanh của ngôn ngữ bắt nguồn từ cuộc sống sinh hoạt hằng ngày, từ lịch sử ngôn ngữ cộng đồng, vùng đất, còn âm thanh tự nhiên của thế giới bên ngoài lại thuộc về hiện thực khách quan. Một số trường hợp cho thấy, vỏ vật chất âm thanh và âm thanh tự nhiên không đồng nhất.
Trong trường hợp thơ Hồ Xuân Hương, thuộc tính nói trên bắt nguồn từ ngôn ngữ dân gian, phong tục, văn hóa Bắc Bộ. Cái vỏ vật chất âm thanh của thơ bà luôn ăn khớp, hòa quyện với nội dung ý nghĩa của văn bản và càng làm gia tăng biểu nghĩa trong tiếng Việt, vốn là một ngôn ngữ đa âm sắc và giàu khả năng biểu cảm. Cách biểu đạt âm thanh trong thơ chữ Nôm của Hồ Xuân Hương thêm một lần nữa cho chúng ta thấy tài năng, bản lĩnh của “Bà Chúa thơ Nôm”.