>> Xem nguyên bản PDF TẠI ĐÂY
Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm cùng thời hay sau đó. Nhân tiện nhìn rộng ra và bàn thêm về tên gọi Chàm, Chăm và *Lâm (trong
quốc hiệu Lâm Ấp). Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài liệu chép tay của LM
Philiphê Bỉnh (sđd) và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám
Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt
là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) từ điển Annam-Lusitan-
Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang
http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=
false. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN),
ĐNA (Đông Nam Á), TQ (Trung Quốc), LM (Linh Mục), CG (Công Giáo), PG (Phật Giáo),
TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường
Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng
Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính
Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại
Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh
Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), P (tiếng Pháp), A (tiếng Anh), L (tiếng La Tinh), VNTĐ
(Việt Nam Tự Điển/Hội Khai Trí Tiến Đức), TNNL (Thiên Nam Ngữ Lục) …v.v… Kí viết là
ký (tên người, tên sách) và trang/cột/tờ của VBL được trích lại từ bản La Tinh để người đọc
tiện tra cứu thêm. Tương quan Hán Việt ghi nhận trong bài không nhất thiết khẳng định
nguồn gốc của các từ liên hệ (có gốc Việt cổ, Chăm cổ hay Hán cổ).
1. Tên (nước) Chiêm Thành và cù lao Chàm
1.1 VBL ghi bốn cách gọi tên nước là chiem thành (~ Chiêm Thành, không có dấu mũ ^
và không viết hoa), trì trì và nước mlồi (xem hình chụp bên dưới), mlồ 2 . Vào thời này,
tiếng Việt chưa có quy ước viết hoa cho địa danh như các ngôn ngữ Ấn Âu như Bồ Đào Nha,
La Tinh, Pháp ... Để ý Chiêm Thành tiếng Bồ là Champa, nhưng tiếng La Tinh là Ciampa (có
lúc ghi là Ciampà) phản ánh phần nào các âm tiếng Việt chăm/chàm và Hán Việt Chiêm 占;
hay tên nước Chiêm Thành viết là 占城 trong đa số tài liệu lịch sử VN và TQ.
VBL trang 833
Học giả Lê Quý Đôn từng ghi nhận về lịch sử Chiêm Thành (Phủ Biên Tạp Lục, Quyển thứ 1
- Sự tích 2 xứ Thuận, Quảng - năm 1776) "Huyện nhà Hán rất to, như 2 xứ Thuận Hoá, Quảng Nam của người nước ta tức là Chiêm Thành về thời Tống, nước Lâm Ấp đời Tấn đời
Đường, mà ở đời Hán là đất một huyện ở Tượng Châu mà thôi". Lê Quý Đôn đã không nhắc
đến giai đoạn Hoàn Vương như trong Tân Đường Thư (新唐書, năm 1060) – Hoàn Vương
liệt truyện (環王列傳): "Hoàn Vương, vốn là Lâm Ấp (林邑), còn có tên là Chiêm Bất Lao (
占不勞), cũng gọi là Chiêm Bà (占婆) ...". Tuy các tài liệu từ thời Tống, Nguyên, Minh đều
thấy dùng quốc hiệu Chiêm Thành - nhưng lại không thấy Tân Đường Thư nhắc đến nên có
lẽ không phổ biến cho lắm vào TK 9, ngay sau thời đại Hoàn Vương.
VBL trang 105 - Chiêm Thành không viết hoa
1.2 Trì Trì ~ Champa
VBL ghi Trì Trì cũng là tên nước Chiêm Thành, Béhaine (1772/1773), Taberd (1838) cũng
ghi như vậy và thêm vào chữ Nôm 池 池 (trì bộ thuỷ 池 là ao hồ, td. thành trì); Theurel
(1877) ở Đàng Ngoài cũng ghi nét nghĩa này. Trì Trì trong Đại Việt Sử Kí Toàn Thư (mộc
bản khắc năm Chính Hoà thứ 18 hay năm 1697) lại viết là 持持 (trì 持 hàm ý cầm giữ 3 ) -
trích từ trang https://www.nomfoundation.org/nom-project/history-of-greater-
vietnam/Fulltext/60-search?searchPage=125&uiLang=en :
茶 全 既 被 擒 其 將 逋 持 持 走 至 藩 籠 㨿 其 地 稱 占 城 主 持 持 得 國 五 分 之 一 使
使 称 臣 入 貢 乃 封 為 王 帝 又 封 華 英 南 蟠 王 凡 三 國 以 霸 縻 之. [63b*5*18]
Trà Toàn ký bị cầm, kì tướng Bô Trì Trì tẩu chí Phiên Lung, cứ kì địa, xưng Chiêm Thành
chủ, Trì Trì đắc quốc ngũ phân chi nhất, sứ sứ xưng thần nhập cống, nãi phong vi vương đế
hựu phong Hoa Anh, Nam Bàn vương phàm tam quốc dĩ bá mi chi. Tạm dịch: sau khi Trà
Toàn ( ?-1471) bị bắt, tướng của hắn là Bô Trì Trì chạy đến Phiên Lung [Phan Rang ngày
nay], chiếm cứ đất ấy, xưng là chúa Chiêm Thành, Trì Trì lấy được 1 phần 5 đất của nước
Chiêm, sai sứ sang xưng thần, nộp cống, được phong làm vương. Vua lại phong vương cho cả
Hoa Anh và Nam Bàn [các xứ phía tây và phía nam Phan Rang] gồm 3 nước để dễ ràng buộc.
So với Việt Nam Sử Lược (Trần Trọng Kim, 1920) thì ghi lại chuyện này như sau :
Việt Nam Sử Lược - Chương XV Nhà Lê
Như vậy là sau hơn 100 năm, người Việt vẫn còn gọi Chiêm Thành là Trì Trì (tên vua của
một lãnh thổ Chiêm Thành) như LM de Rhodes đã ghi nhận khá chính xác như là một nhân
chứng lịch sử. Một người Việt Nam, Bentô Thiện, vào năm 1659 cũng nhắc đến việc Trì Trì
quy hàng vua Lê - ông không ghi họ (hay tiếng đệm 4 Bô) mà ghi như VBL - xem hình chụp
bức thư viết tay này ở Phụ Trương mục 5.
1.3 Mlồ - Mlồi là Chiêm Thành
VBL trang 470
Tân Đường Thư (khoảng năm 1060) từng ghi tên gọi người Chăm là "mã lưu nhân" 馬留人
(người mã lưu - mã lưu có thể là một dạng kí âm và đơn âm hoá của mlồ/mlồi theo người
viết/NCT). Mã là ngựa, lưu là dừng lại, nhân là người - cụm danh từ "mã lưu nhân" này
không có nghĩa rõ ràng 5 vì là kí âm của tiếng bản địa (td. tiếng Chăm) mlôi. Lưu 留 có một
dạng âm cổ phục nguyên là *lu đọc gần với lô. Sau này, phụ âm đầu m- yếu đi (tha hoá 6 ) chỉ
còn âm lồ hay Lồi để chỉ người Chăm sau này như trong cách dùng quân Lồi (quân Chăm,
Béhaine/1772-1773, Taberd/1838), người Lồi (người Chăm, Huỳnh Tịnh Của/1895). Còn có
thể Lồi là một dạng đơn âm hoá của Hroi (> roi > lồi, ảnh hưởng của tiếng Việt 7 ). Nên nhắc ở
đây là An Nam Đại Quốc Hoạ Đồ (Taberd/1838) ghi OLIM CIAMPA seu LOI vel THUẬN
THIÊNG (từng là CIAMPA hay là LOI hay là THUẬN THIÊNG/NCT) ở trên địa danh
BÌNH THUẬN TRẤN - xem hình chụp lại ở dưới :
An Nam Đại Quốc Hoạ Đồ (Taberd/1838)
1.4 cu lao cham là cù lao Chàm hay cù lao Chăm?
Đặc biệt là trong mục lao (cù lao), VBL ghi cách dùng cu lao cham (~ cù lao Chàm): bản đồ
1561/1653 ghi là polociampeila, tiếng Bồ là ilha de champeilo. Theo người viết/NCT, polo-
liên hệ đến tiếng Inđônêsia và Mã Lai pulao, tiếng Tagalog (ở Phi Luật Tân) là pulô, tiếng
Chăm là palau/palao, dạng tiền Mã Lai Đa Đảo *palaw; -ciampeila có thể do ngữ căn ciam-
(~ Cham) hợp với tiếng Bồ ilha (đảo): ilha > eilo. Có thể vì biến âm nên dạng ilha không dễ
nhận ra ở âm tiết cuối (qua tiếng Bồ) nên mới có cấu trúc polociampeila (nghĩa đen là đảo +
Chăm + đảo). Không nên ngạc nhiên với cấu trúc 'láy nghĩa' như trên vì ngôn ngữ thay đổi
theo thời gian và nhiều khi ta không hiểu nét nghĩa cổ hay từ ngoại quốc nữa: thí dụ như nước
Đông Timor là East Timor hay Timor-Leste (tiếng Bồ). Thật ra, timor đã có nghĩa là phía
đông (tiếng Inđônêsia, Mã Lai ...) thành ra cấu trúc East Timor có nghĩa là đông - đông cũng
như Timor-Leste. Tiếng Việt từng dùng sông giang hà để chỉ dãi ngân hà 8 (ngân hà, sông
ngân ~ the Milky Way (A) ~ la voie Lactée (P): sông, giang và hà đều cùng một nghĩa ...v.v...
VBL trang 399-400
Bản đồ Đông Nam Á của nhà vẽ hoạ đồ Ý Giacomo Gastaldi (1500-1566), in vào khoảng
1561 ở La Mã. Để ý các tên đảo thường dùng từ pulo, thí dụ như cù lao Chàm ghi là pulo
campaa, REGNO DE CAMPAA là vương quốc Chăm, REGNO DE GAVCHINCHINA là
vương quốc Gauchinchina (vương quốc "Đàng Trong" ~ Cochinchina - kẻ quãng/VBL, cachu
~ Kẻ Chợ). Bản đồ này sau được in lại bằng hình màu bởi Gerard de Jode năm 1593 :
Bản đồ 1561 (de Rhodes) - các địa danh trong bài này
là Dinh Ciam (Dinh Chiêm), CIAM (tỉnh/xứ Chiêm) và Polociampeilo (cù lao Chàm)
VBL chỉ có các dạng chàm, chám (chám tlán), chấm (chấm cu), chậm, chăm (chu chăm).
Dạng cham trong cu lao cham (~ cù lao Chàm) có khả năng cao 9 là chăm so với chàm (hay
các dạng không phải bình thanh như chám, chảm, chạm dựa vào VBL) vì VBL có những
trường hợp không ghi âm ă mà chỉ ghi a như
- blang (VBL) ~ trăng, mạt blang ~ mặt trăng; blan ~ lăn …
- đang, đèn ~ đăng
- chang, có chang ~ chăng, có chăng
- bàng an, bàng yen ~ bằng an, bằng yên; ảm, ảm con ~ ẳm, ẳm con
- blam mực ~ chấm mực
- kháp, kháp mọi nơi (VBL) ~ khắp, khắp mọi nơi
- hàng hà sa sồ (VBL) ~ hằng hà sa số
- đạc (VBL) ~ đặc
- ra nam (VBL) ~ ra năm – nhưng VBL lại ghi đúng sang năm ; nám ~ nắm …
- chám ~ chấm (cả hai dạng đều hiện diện trong VBL)
- cửa lác đi lác lại (VBL) ~ cửa lắc đi lắc lại
- chiem thành ~ Chiêm Thành (VBL không ghi dấu mũ ^) …v.v…
An Nam Đại Quốc Hoạ Đồ 安 南 大 國 畫 圖 (Taberd/1838) - 200 năm sau thời VBL nhưng
vẫn còn địa danh Cù Lao Chăm, để ý cửa Đại Chăm 10 (~ cửa Đại Chiêm - Phủ biên tạp
lục/sđd) ở đối diện và Cù Lao Ré (có thêm dấu và viết hoa, cũng gọi là Pulo Canton) - trích
từ trang
https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/d/dd/An_Nam_Dai_Quoc_Hoa_Do_by_Je
an_Louis_Taberd_1838.jpg
Phần sau sẽ đi vào chi tiết về các âm chiêm, chăm, chàm và đề xuất một dạng âm cổ phục
nguyên (reconstructed sound/A) liên hệ đến âm lâm HV 林 trong quốc hiệu Lâm Ấp 林邑.
2. Nhìn rộng ra - bàn thêm về các âm chiêm, cham
Số là anh bạn Inrasara có bàn về chữ Chăm, Chiêm và Chàm có từ bao giờ - theo anh thì
chăm chỉ có từ năm 1979 do quy định chính thức của nhà nước và không có mặt trong tự điển
hay ngoài đời - tham khảo bài nói chuyện trên trang này (3/2023)
https://www.youtube.com/watch?v=x0g8Sm6-Y7M hay bài viết "Trao đổi: Chăm hay Chàm
đúng?" trang này (2010) https://baodanang.vn/channel/5433/201008/trao-doi-cham-hay-
cham-dung-1999374/ …v.v... Sau đó người viết có vài trao đổi với anh về khả năng các dạng
chăm hay chàm đã xuất hiện trước năm 1979 rất lâu – td. như các tài liệu đã được nhắc đến là
- Alexandre de Rhodes (VBL: cu lao cham ~ cù lao Chăm/Chàm ...) - TK 17
- Béhaine (1772/1773, tự điển Việt - Nôm - La Tinh) ghi chăm (phủ chăm)
2.1 Dạng cham (~ chăm, chàm) đã xuất hiện từ các tài liệu của LM de Rhodes (VBL, các bản
báo cáo). Tuy nhiên, một số tài liệu trước thời VBL cũng gián tiếp ghi nhận cách đọc này qua
con chữ La Tinh/Bồ. Thí dụ như từ năm 1621, Kẻ Chiêm/Chăm đã được ghi lại qua dạng
Cacciam trong các tài liệu của LM Christoforo Borri (ở khu vực Đà Nẵng bây giờ từ 1618
đến 1621). “Tạm dịch/NCT: Đàng Trong chia ra 5 tỉnh. Tỉnh thứ nhất là nơi Chúa ở ngay sát
Đàng Ngoài gọi là Thuận Hóa. Thứ hai là Cacciam, nơi hoàng tử làm trấn thủ. Tỉnh thứ ba là
Quamgya, thứ tư là Quignin, người Bồ gọi là Pullucambi và tỉnh thứ năm là Renran”
Cacciam (LM Christoforo Borri).
Hình chụp bên trên cho thấy một đoạn từ trang 8 cuốn Relatione della nuova missione delli
P.P. della Compagnia di Gesù al Regno della Cocincina (1631) của LM Christoforo Borri. So
sánh dạng Cacciam tiếng Ý của Borri với dạng Cacham trong tài liệu viết tay của LM João
Roiz (tiếng Bồ Đào Nha - đã được đánh máy lại): Cacham xuất hiện 2 lần (tỉnh Cacham) -
xem hình chụp bên dưới
Cacham (LM João Roiz)
2.2 Các dạng kí âm của Chiêm trong quốc hiệu Chiêm Thành
2.2.1 Bắt đầu có lẽ nên xem lại một số địa danh cổ hơn mà không thấy nhắc đến trong các tài
liệu tiếng Việt, Hán hay Nôm, tuy các bản đồ Tây phương từng ghi là campa, Ciampa như đã
bàn ở trên - đây cũng là các cách gọi trong một số thư tịch Hán và tài liệu cổ như
a) 占波 Chiêm ba trong "Đại Đường tây vực cầu pháp cao tăng truyện - quyển hạ - Kinh châu
Tuệ Mệnh thiền sư" tác giả/pháp sư Nghĩa Tịnh (635-713)
b) 瞻波 Chiêm ba trong "Đại Đường tây vực cầu pháp cao tăng truyện - quyển hạ - Kinh châu
Pháp Chấn thiền sư" tác giả/pháp sư Nghĩa Tịnh
c) 擔波 Đam ba trong "Dị vực chí - quyển hạ 11 - Đam Ba quốc" tác giả Chu Trí Trung (?-?)
thời nhà Nguyên (1279-1368)
d) 詹波 Chiêm ba trong "Nguyệt lệnh quảng nghĩa - tuế lệnh nhị - phương vật" tác giả Phùng
Ứng Kinh (1555-1606)
e) 瞻婆 Chiêm bà trong "Đường Thư - Nam man truyện"
f) 瞻博 Chiêm bác trong "Đường Thư - Nam man truyện"
g) 占不劳 Chiêm bất lao 12 trong "Tân Đường Thư"
Như vậy là có 8 cách kí âm chiêm qua chữ Hán, đặc biệt để ý các chữ chiêm dùng để kí âm là
占 瞻 詹 và đam/đảm 擔 vì các dạng này thường xuất hiện hơn. Do đó phần sau sẽ đi vào chi
tiết các cách đọc những chữ này theo dòng thời gian (lịch đại), từ đó sẽ bàn thêm về các khả
năng phục nguyên âm cổ (thời Hán). Một điểm nên nhắc ở đây là càng đi xa hơn (thời Hán,
tiền Hán) thì dữ kiện ngữ âm/tài liệu càng ít, các nét nghĩa mờ hơn và độ chính xác càng nhỏ.
Các dạng chữ Nôm cổ cũng phân biệt hai âm (lúa) chiêm và chăm:
2.2.2 Chiêm là âm HV thường viết là 占 và xuất hiện thường xuyên trong các tài liệu
Hán/Nôm ở VN như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chẳng hạn. Xem lại các cách đọc chiêm 占
hay 佔 貼 (thanh mẫu chiếu 照 vận mẫu liêm 廉 bình thanh) có các cách đọc theo phiên thiết
職廉切 chức liêm thiết (TVGT, ĐV, QV)
2.2.3 Một dạng khác của chiêm được kí âm là 瞻 (thanh mẫu 照 chiếu vận mẫu 廉纖 liêm
tiêm bình thanh) có các cách đọc theo phiên thiết
職廉切 chức liêm thiết (TVGT, ĐV, QV)
諸廉切 chư liêm thiết (NT, TTTH)
之廉切, 音詹 chi liêm thiết, âm chiêm (TV, LT, VH, CV, TVi) - bình thanh
之廉反 chi liêm phản (NKVT 五經文字)
軄廉反 chức liêm phản (LKTG) - 軄 là dị thể của 職
章豔切,詹去聲 chương diễm thiết, chiêm khứ thanh (TV, LT)
TNAV ghi vận bộ 廉纖 (liêm tiêm/dương bình)
CV ghi cùng vần/bình thanh 詹 瞻 占 噡 霑 沾 (chiêm triêm)
側姜切,音章 trắc khương thiết, âm chương (TVi, KH)
職謙切 chức khiêm thiết (CTT)
Giọng BK bây giờ là zhān (theo pinyin) so với giọng Quảng Đông zim1 và các giọng Mân
Nam 客家话 [客语拼音字汇] zam1 [陆丰腔] zham1 [客英字典] zham1 [沙头角腔] zam1 [
宝安腔] zam1 [台湾四县腔] zam1 [梅县腔] zham1 [海陆腔] zham1粤语 zim1, tiếng Nhật
sen tiếng Hàn chem.
2.2.4 Lại một dạng khác của chiêm được kí âm là 詹 (thanh mẫu 照 chiếu vận mẫu 廉纖
liêm tiêm bình thanh) có các cách đọc theo phiên thiết
職廉切 chức liêm thiết (TVGT, ĐV, QV, LT)
職廉反 chức liêm phản (LKTG)
Như vậy chiêm là âm đọc Hán Việt từ đời Đường (dựa vào các phiên thiết và âm vận từ thời
này cùng phương ngữ), chăm còn là một âm đọc của Mân Nam (td. người Hẹ/Hakka) - đây
cũng là giai đoạn Champa có quốc hiệu là Chiêm Thành như trong các thư tịch từ đời Đường
về sau. Một dạng âm cổ phục nguyên của chiêm 占 là *trêm (đọc cận âm theo tiếng Việt ~
*tem) hay *?liêm, so với một dạng âm cổ phục nguyên của chiêm 詹 là *tjam - đều có phụ
âm đầu là phụ âm đầu lưỡi d, t. Điều này còn phù hợp với cách đọc
- điểm 点 點 (điểm - chấm - châm), điếm 店 (tiệm), trạm 站 ... dựa vào thành phần hài thanh
占, triêm điếp 沾, triển 颭, thiêm 笘, thiếp 帖 …
- niêm 鮎 (niêm - trê/cá trê), niêm 粘 黏, niêm 拈 ... dựa vào thành phần hài thanh 占
- đam/đảm 擔 儋, đam/đạm 澹 ... dựa vào thành phần hài thanh 詹 …
Một điểm đáng chú ý từ các phụ âm đầu là khả năng n- (phụ âm đầu lưỡi/răng/kêu/tắc) cũng
có thể đã từng hiện diện trong các chữ có thành phần hài thanh 占 như 鮎 (niêm - trê/cá trê),
niêm 粘 黏, niêm 拈: điều này có thể giải thích là các phụ âm n và l (hay r) đã có mặt trong
các dạng âm cổ phục nguyên, như dạng *?liêm của học giả Trịnh Trương Thượng Phương 鄭
張尚芳 (1933-2018). Ngoài ra, giao lưu giữa nước cổ Chiêm Thành và các triều đại
Hán/Đường thường phải qua ngã Giao Châu và Mân Nam, cho nên ảnh hưởng của tiếng địa
phương (td. Mân Nam, lẫn lộn 14 hai phụ âm đầu n và l) không thể không có vết tích nào - điều
này còn phản ánh qua các tương quan l-ch hay tr-ch khi so sánh cách đọc của tiếng Việt, Hán
Việt và Nôm:
- lam 藍 chàm (ĐNQATV) > màu xanh đậm, tiếng Khmer là trom ត្រុំ , tiếng Proto-Tai (tiền
Thái) là *kromꟲ… Một dạng âm cổ phục nguyên là *g-ram
- lang 郎 chàng
- lạp 臘 chạp (tháng chạp)
Dẫu trăm giống chỉ cũng vào trôn kim. Ngọc Âm Chỉ Nam Giải Nghĩa, 36a
- Chữ Nôm trám dùng lãm HV 覧 làm thanh phù:
眉昂��柳䜹䜹 枚[輸]藾����殊藾檑
Mày ngang lá liễu thưa thưa. Môi thua trái trám, má thù trái roi. Thiên Nam Ngữ Lục Ngoại
Kỉ, 110b
Chữ Nôm treo từng dùng liêu 尞 (> leo) làm thanh phù
Chữ Nôm trên từng dùng liên 連 (> lên) làm thanh phù
…v.v…
Tóm lại, ta có cơ sở để cho một dạng âm cổ phục nguyên của chiêm là *(t)liơm với phụ âm t
đã yếu đi (tha hoá) so với phụ âm xát/đầu lưỡi/kêu l - ngoài ra nguyên âm iê đã mở rộng hơn
(như các nguyên âm phục nguyên của chiêm) để đọc gần như ơ để cho ra âm *lơm gần với
âm lâm HV 林 trong quốc hiệu Lâm Ấp 林邑. Lâm có một dạng âm cổ phục nguyên là
*grơm (hay *glơm/NCT so với *lơm), có thể liên hệ đến tiếng Khmer cổ đại *ram (rừng kế
sông bị lụt 15 ).
Thành ra ta có cơ sở để liên hệ Chiêm trong Chiêm Thành với Lâm trong Lâm Ấp qua quá
trình phục nguyên âm cổ, cũng như qua các liên hệ âm HV và Việt. Điều này giải thích được
tại sao âm Chiêm, Lâm và Cham (td. Champa, Chiêm Bà) luôn là thành phần chung trong các
cách gọi tên nước Chiêm Thành, ngoài ra cũng giải thích được nhà nước Lâm Ấp đã tồn tại
trước thời Chiêm Thành, phù hợp với các tài liệu lịch sử trước đây.
Tóm tắt phần 41 này, tự điển VBL cho ta nhiều dữ kiện rất thú vị từ chính nhân chứng lịch sử
(LM de Rhodes): như các cách gọi khác nhau Champa, Ciam (Chiêm), Chiêm Thành, Cham
(Chăm/Chàm), Trì Trì, Mlô (Mlồi), cu lao cham (cù lao Chăm/Chàm). Những dữ kiện này
còn phù hợp với các tài liệu lịch sử như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Đại Nam Thực Lục, thư
tịch Hán cổ ... Tuy nhiên cần phải khai thác thêm chi tiết cùng với các tài liệu khác cùng thời
như bản đồ địa phương, tài liệu địa phương (td. tiếng Chăm) để cho ra kết quả chính xác hơn
nữa. Ngoài ta, dựa vào các tài liệu âm vận Hán cổ và Hán Việt, một dạng âm cổ phục nguyên
của Chăm/Chàm/Chiêm có thể là *(C)lơm, lơm đọc gần như lâm (td. giọng Quảng Nam, kí
hiệu C chỉ một phụ âm như t/k/g đã mất đi). Điều này dẫn đến khả năng Lâm trong quốc hiệu
Lâm Ấp 16 vào TK 2 SCN cũng chính là Chăm/Chiêm trong cách gọi tên nước như Champa
(Chiêm Bà) hay Chiêm Thành - phản ánh quá trình biến đổi phụ âm đầu lưỡi/răng cổ hơn
(*(C)l > lâm) thành phụ âm mặt lưỡi/vô thanh ch (> cham/chiêm). Một trường hợp nữa đáng
chú ý là tên nước Hoàn Vương 環王 từ năm 757 đến 859 của Chiêm Thành, có thể hàm ý
hoàng tộc Chăm thời đó thường trang sức 17 dây chuyền vàng, vòng ngọc (hoàn 環 là vòng ngọc); nhưng cũng có thể là một cách dịch nghĩa của tlàm (VBL trang 803 là hoa tai, tlàm ~
chàm - chằm) cũng liên hệ trực tiếp đến âm Chăm - xem thêm Phụ Trương mục 3. Do đó ba
tên gọi Lâm Ấp, Hoàn Vương và Chiêm Thành đều có thể liên hệ đến Chăm hay Chàm. Hi
vọng bài viết nhỏ này gợi ý cho người đọc, nếu cảm thấy thích thú, tra cứu và tìm hiểu sâu xa
hơn trong thư tịch cổ, bia kí cùng ngôn ngữ địa phương để tìm ra nhiều kết quả ngoạn mục
hơn nữa.
3. Tài liệu tham khảo chính
1) Trần Văn Ân (?) "DINH TRẤN THANH CHIÊM VỚI CHỮ QUỐC NGỮ" có thể tham
khảo bài viết này trên mạng như
http://vanhocnghethuat.quangnam.gov.vn/Default.aspx?tabid=201&ctl=tcb&mid=712&tc=53
2
2) Philiphê Bỉnh (1822) “Sách Sổ Sang Chép Các Việc” NXB Viện Đại Học Đà Lạt, 1968.
(1822) “Phép Giảng Tám Ngày”, “Truyện nước Anam Đàng trong quyển
nhị” … Các tài liệu viết tay của chính tác giả còn lưu trữ trong thư viện tòa thánh La Mã.
3) Huỳnh Tịnh Của (1895-1896) "Đại Nam Quấc Âm Tự Vị" Tome I, II - Imprimerie REY,
CURIOL & Cie, 4 rue d'Adran (SaiGon).
4) Đổng Thành Danh (2018) "Đặt lại vấn đề thời điểm ra đời của nhà nước Lâm Ấp", "Xác
định lại ranh giới Đại Việt- Champa qua các thời kỳ" (2015), "Công cuộc mở đất Aiaru- Phú
Yên 1597 – 1611" (2015), "Sự bản địa hóa ở vương quốc Champa thế kỷ XV- XVII" (2018)
...v.v... Có thể tham khảo loạt bài viết này trên trang này
https://nghiencuulichsu.com/tag/dong-thanh-danh/ …v.v…
5) Ngô Văn Doanh (2006) "Tháp bà pô nagar: những bia ký sanskrit" có thể đọc toàn bài
trang này
http://thuvien.due.udn.vn:8080/dspace/bitstream/TVDHKT/10305/2/000000CVv140S032006
027.pdf
6) Lê Quý Đôn (1776) "Phủ biên tạp lục" dịch giả Ngô Lập Chí (Trường Đại Học Tổng Hợp
Hà Nội - Khoa Xã Hội -1959). "Vân Đài Loại Ngữ" Trần Văn Giáp biên dịch và khảo thích,
Trần Văn Khang làm sách dẫn, Cao Xuân Huy hiệu đính và giới thiệu - NXB Văn Hoá Thông
Tin (in năm 2006).
7) Nguyễn Quang Hồng (2015) "Tự điển chữ Nôm dẫn giải" Tập 1 và 2 - NXB Khoa Học Xã
Hội/Hội Bảo Tồn Di Sản Chữ Nôm (Hà Nội).
8) Nguyễn Văn Huy (2016) "Tìm hiểu cộng đồng người Chăm tại Việt Nam" có thể đọc toàn
bài trang này https://nghiencuulichsu.com/2016/08/31/tim-hieu-cong-dong-nguoi-cham-tai-
viet-nam/ …
9) Nguyễn Huỳnh Đăng Khoa (2017) "Lịch sử Champa từ sơ khai đến cuối thế kỉ XV" có thể
tham khảo bài viết trên trang này chẳng hạn https://nghiencuulichsu.com/2017/10/02/lich-su-
champa-tu-so-khai-den-cuoi-the-ki-xv/ - để ý một số ý kiến về bài viết ở phần cuối trang (có
tất cả 17 thoughts đến nay 1/2024).
10) Nguyễn Đình Nam (2023) "Dinh Chiêm (Dinciam) ở đâu?" có thể tham khảo bài này trên
mạng như https://nghiencuulichsu.com/2023/11/22/dinh-chiem-dinciam-o-dau/ …v.v…
11) Từ Nguyên (1979) Bản cập nhật năm 2004 - Thương Vụ Ấn Thư Quán (Bắc Kinh)
12) Alexandre de Rhodes (1651) “Phép Giảng Tám Ngày” – Tủ Sách Đại Kết in lại từ Tinh
Việt Văn Đoàn (1961 – Sài Gòn) với phần giới thiệu của tác giả Nguyễn Khắc Xuyên.
(1651) “Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum” thường
gọi là từ điển Việt-Bồ-La; bản dịch của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính –
NXB Khoa Học Xã Hội, Thành Phố HCM (1991).
“Tường Trình về Đàng Trong 1645” bản dịch của Hồng Nhuệ, NXB
Ánh Sáng Publishing, Escondido (California/Mỹ, 1994?).
“Lịch sử Vương Quốc Đàng Ngoài từ 1627 tới năm 1646” dịch giả
Nguyễn Khắc Xuyên – Tủ sách Đại Kết, Thành phố HCM (1994).
13) Jean Louis Taberd (1838) – tên Việt là cố Từ – “Dictionarium Annamitico-Latinum”
Serampore (Bengale) và cuốn tự điển La Tinh – Việt (Dictionarium Latino-Annamiticum -
completum et novo ordine dispositum - 1838).
14) Võ Văn Thắng (2023) "Vùng Quảng Nam và sự xuất hiện nước Hoàn Vương" có thể
tham khảo tài liệu này trên trang https://baoquangnam.vn/van-hoa/vung-quang-nam-va-su-
xuat-hien-nuoc-hoan-vuong-140597.html ...
Phụ Trương
1. Dạng cham (~ cham, chàm hay chăm) đã xuất hiện trong các bài viết của LM de
Rhodes: td. trong cuốn Divers voyages et missions du P. Alexandre de Rhodes en la Chine et
autres royaumes de l'Orient (Paris, 1653) trang 164:
2. Đại Nam Quấc Âm Tự Vị ghi các mục Chiêm và Chiếm (đều viết chữ Nôm là 占),
nhưng mục Chăm 占 ghi là Chàm ~ Chiêm Thành. Đặc biệt là thành ngữ ở Huế ở Chăm có
nghĩa là ở xa lắm (hàm ý đường đi từ Sài Gòn ra Bình Thuận, Thừa Thiên). Cách dùng gạo
chăm có khả năng là từng thông dụng ở Đàng Trong (td. Béhaine/Taberd/Huỳnh Tịnh Của, có
thể ảnh hưởng gần đây hơn và vết tích của âm cham/chăm) so với gạo chiêm ở Đàng Ngoài
(ảnh hưởng của âm Hán Việt - Chiêm, Chiêm Thành).
3. Trằm - *cham - hoa (bông) tai
Trằm (VBL ghi là tlàm) từng có nghĩa là hoa tai, trằm hoãn 㻸瑗 còn là cụm danh từ chỉ hoa
tai, một loại trang sức trên cơ thể; bây giờ không còn thấy hiện diện trong tiếng Việt. Hoa
(bông) tai thời xưa có thể rất lớn 18 (như vòng đeo cổ, đeo tay). Học giả Lê Ngọc Trụ 19 (2002)
ghi dạng chằm - chằm hoãn và đưa ra nhận xét chằm có gốc là hoãn (hoàn 環)!
VBL trang 803
Béhaine (1772/1773) – Taberd (1838)
Trằm 20 (inaures La Tinh,) và trằm hoãn xuất hiện trong tự điển Béhaine (1772/1773) - Taberd
(1838) - Theurel (1877) – Vallot (1898) - Génibrel (1898) - Gustave Hue (1937).
Hoa tai/tự điển Béhaine (1772/1773)
Tlàm (VBL) > tràm (Philiphê Bỉnh, tự điển Việt Bồ viết tay).
Hình vẽ một người Chăm cỡi voi (quản
voi/VBL) với cái vố đánh voi truyền thống (VBL ghi là ꞗố đánh uoi). Tên bức tranh là
Chiêm Thành quốc 占城國) tác giả Trần Mộng Lôi (1650-1741, học giả đời Thanh/Khang
Tượng thần Siva thế kỷ 12 - hiện vật khai quật tại Tháp Mẫm - trích từ trang
https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3096/17361/phu-djieu-than-siva-thap-mam-the-ky-xii-
trong-nghe-thuat-djieu-khac-dja-champa-hien-djang-djuoc-trung-bay-tai-bao-tang-lich-su-
quoc-gia.html . Để ý các hoa tai và vòng trang sức (< ảnh hưởng Ấn Độ giáo).
4. Tại sao lại chú ý đặc biệt đến âm chiêm/chăm trong quốc hiệu champa?
Cách dùng Chiêm Thành từ trên 1300 năm trong tài liệu Hán cổ, cũng như người Việt thường
dùng dạng (lúa) chiêm hay chăm từ rất lâu (theo Lê Quý Đôn/sđd - ít nhất là vào thời Tống).
Lưu Tuân 劉恂 (thời Đường Chiêu Tông) soạn cuốn Lĩnh Biểu Lục Dị 嶺表錄異 (còn gọi là
Lĩnh Nam Lục Dị 岭南录异) trong đó có ghi là vào năm 877 (Đường Hy Tông - năm Càn
Phù thứ tư) “占城國進馴象三頭” Chiêm Thành quốc tiến tuần tượng tam đầu (tạm
dịch/NCT nước Chiêm Thành dâng voi có ba đầu)… Ngoài ra Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cho
thấy các cách dùng như Chiêm nhân 22 占人 (người Chiêm/Chăm), Chiêm quốc 占國 (nước
Chiêm/Chăm), Chiêm sứ 占使 (sứ giả Chiêm Thành), Chiêm khấu (giặc cướp Chiêm
Thành) 占寇, Chiêm ngữ 占語 (tiếng Chiêm/Chăm), Chiêm chúa 占主 (vua/chúa nước
Chiêm/Chăm), phía nam bình Chiêm, phía bắc đánh Tống ... cùng với tên gọi chính thức là
Chiêm Thành 23 占城 ...v.v...
Chiêm sứ và Chiêm Thành trong Thiên Nam Ngữ Lục (câu 7093 – 7096).
Cũng nên chú ý đến ảnh hưởng của tiếng Phạn (Ấn Độ) trong vùng ĐNA. Thí dụ như tên
nước Kampuchia cũng lấy từ tiếng Phạn (Sanskrit) Kambojas काम्बोज (Kamboga, một dân tộc
cổ đại ở bắc Ấn Độ) – có lẽ khi giao lưu với các lái buôn Ấn Độ, các vị này thấy khu vực này
(Đông Nam Á) cũng giống như các dân Kambojas sống ở bắc Ấn xa xôi (và thời đó không có
giai cấp xã hội/castes). Nước Thái Lan trước đây có tên là Xiêm (vịt Xiêm, dừa Xiêm …) có
gốc từ tiếng Phạn syama श्याम (đen, thâm) có lẽ hàm ý nước da của dân địa phương. Tên Tân
Gia Ba Singapore cũng có gốc Phạn simha सिंह (—> Singa, con sư tử) ghép với pura पुर
(thành phố, lâu đài), biểu tượng (quốc gia) của Tân Gia Ba là con sư tử … Tên Mã Lai
(Malaysia) cũng có gốc Phạn malaya मलय (tên một dãy núi, hàm ý nước Mã Lai có nhiều
núi). Chăm (pa) có thể liên hệ đến tiếng Phạn campa चम्पक (loại hoa sứ màu vàng) hay địa
danh, cũng như các tên Indrapura, Amaravati, Vijaya, Kauthara, Panduranga … Đây còn có
thể là kết quả của từ nguyên dân gian (folk etymology): hai âm giống nhau của Cham và
Champa dẫn đến khả năng liên hệ tên nước với cách gọi ‘văn vẻ’ như tên một loài hoa sứ
chẳng hạn. Quá trình này còn thấy trong các cách gọi tên nước gần đây hơn như Mỹ, Đức,
Pháp (chỉ là cận âm chứ không có nghĩa gì liên hệ đến mỹ/đẹp, đức/hạnh, pháp/lề luật ...).
5. Thư viết tay của Bentô Thiện (1659)
Thư viết tay của Bentô Thiện (1659) cũng ghi tên chúa Chiêm Thành là Trì Trì thần phục
nước An Nam. Vua bắt được chúa Chiêm Thành (Mlồy) ... Ngữ pháp tiếng Việt vào TK 17
khá đặc biệt: nó có thể là đại (danh) từ số nhiều hay số ít; chẳng là không; ăn thịt là hoạ ~ rất
hiếm (ít khi) ăn thịt; chữ quốc ngữ thời này không phân biệt rõ ràng hai thanh hỏi và ngã.
ý với nhận xét này, thêm một dữ kiện là Chiêm Bà Thành 瞻波城 từng là thủ đô của Anga (thế kỉ 6 TCN) ở Ấn
Độ, ngay chỗ hai sông Campa và Ganga gặp nhau - nay là các làng có tên là Campāpurī và Champanagar ...v.v...
Tham khảo chi tiết về Champapuri (~ Chiêm Thành) của cổ Ấn Độ trang này chẳng hạn
https://dbpedia.org/page/Champapuri hay https://academic-accelerator.com/encyclopedia/champapuri ...v.v...
VBL trang 354
Hãy nghe người Việt (LM Philiphê Bỉnh, cách đây 2 TK) giải thích tại sao có tên xứ Quảng:
Nước Quảng - trích từ "Truyện nước Anam Đàng Trong - quyển nhị" Philiphê Bỉnh. Thời
gian đầu thì có lúc gọi là kẻ Quảng - trích từ bức thư viết tay của Bentô Thiện (1659):
Điều này cho thấy là cách dùng kẻ không đơn giản như học giả Đào Duy Anh từng nhận xét 24
"Trong tiếng Việt Nam có cái lệ lấy chữ Kẻ đặt lên trên một chữ khác để gọi tên một làng,
chữ thứ hai này thường là chỉ một đặc điểm gì về địa lý hay về kinh tế của làng ấy, ví như Kẻ
Chợ, Kẻ Noi, Kẻ Vẽ, Kẻ Mộc ở Bắc bộ, Kẻ Hạ ở Quảng Bình, Kẻ Trái ở Thuận Hóa". Kẻ còn
có nghĩa là người: kẻ chợ, kẻ quê, kẻ dữ, kẻ hèn (VBL) so với giả HV 者 (người nào, td. tác
giả, kí giả ...). Vào TK 17, VBL ghi kẻ chợ là kinh đô xứ Đông Kinh (Đàng Ngoài) - xem
đoạn viết tay của Philiphê Bỉnh chụp lại ở trên (sau VBL gần 2 TK) - và Chỉ Nam Ngọc Âm
Giải Nghĩa 25 trang 87 ";… Bang kì kẻ chợ khoẻ bền muôn thu. Thành thị chợ họp đế đô.
Thông nhau kẻ bán người mua của nhiều ...";.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Cung Thông