Ở kỳ trước, chúng tôi cũng đã nêu nhiều giả thuyết về địa danh Sài Gòn: Thứ nhất cho rằng địa danh Sài Gòn có nguồn gốc từ chữ 西貢 (Tây Cống); thứ hai là đọc trại từ chữ 堤岸 (Đề Ngạn) - tức “thầy ngòn”; thứ ba là phiên âm từ chữ Prei Nokor; thứ tư là do vùng Prei Nokor có nhiều cây gòn nên nảy sinh tên gọi Sài Gòn.
Trong quyển Histoire de la mission de Cochinchine 1658-1823 của Adrien Launay (Missions étrangères de Paris), từ Sài Gòn được viết là Rai-gon, qua chữ Rai-gon thong (Sài Gòn thượng) và Rai-gon-ha (Sài Gòn hạ) – tr.190. Rai-gon chính là cách phiên âm từ chữ Prey kor, rồi dần dần trở thành Sài Gòn như ngày nay.
Ngoài ra, trong Đại Nam quấc âm tự vị, Từ điển Taberd hay Giúp đọc Nôm và Hán Việt (Anthony Trần Văn Kiệm), chữ Sài Gòn đều được viết bằng chữ Nôm là 柴棍: sài (柴) có nghĩa là củi, gòn (棍) là cây gòn hay cây kapok. Như vậy đã rõ, có thể hiểu Sài Gòn nghĩa là củi gòn (theo chữ Nôm) hoặc rừng cây gòn (theo tiếng Khmer).
Về chữ viết, địa danh Sài Gòn có sự khác biệt theo thời gian. Thời Pháp thuộc, năm 1761, cách viết Saïgon (chữ i có 2 dấu chấm) xuất hiện nhiều lần trong quyển Vignaud Pamphlets. France (nguyên bản từ Đại học Michigan); còn cách viết Saigon thì ở mục Explanation of Foreign Words (tập 2) trong quyển The Revolutions of Persia (Jonas Hanway biên soạn, Osborne ấn hành năm 1762). Đến năm 1776, từ Sài Gòn xuất hiện lần đầu tiên trong quyển Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn với cách viết là Sài Côn (柴棍) - do trong Hán ngữ không có chữ gòn nên thay bằng chữ côn. Đến nửa đầu thế kỷ 19, chữ Sài Gòn được viết giống như ngày nay, chính thức xuất hiện ở trang ii trong quyển Nam Việt–Dương Hiệp Tự vị (Dictionarium Anamitico-Latinum, 1838) của Jean-Louis Taberd.
Hòn ngọc Viễn Đông còn được phong tặng cho Thượng Hải, Sri Lanka, Phnom Penh, đảo Java...
Vương Trung Hiếu