I. ĐÁNH THẮNG CUỘC TẬP KÍCH ĐƯỜNG KHÔNG CHIẾN LƯỢC CỦA ĐẾ QUỐC MỸ, LÀM NÊN CHIẾN THẮNG HÀ NỘI- ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG CUỐI THÁNG 12/1972
Ngày 18/12/1972 - những trận đánh đầu tiên, hạ gục tại chỗ "Siêu pháo đài bay B.52 "- thần tượng của không lực Hoa Kỳ:
18h50', toàn Quân chủng Phòng không - Không quân chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cấp 1. 19h15' Chỉ huy Trung đoàn 291 báo cáo: "B.52 đang vào miền Bắc". 19h25', không quân ta được lệnh cất cánh đón đánh các tốp máy bay chiến thuật của địch. Bộ Tư lệnh Quân khu Thủ đô Lệnh báo động toàn Thành phố. Từ 19h25' đến 20h18', nhiều tốp B.52 (mỗi tốp 3 chiếc) liên tiếp dội bom xuống khu vực sân bay Nội Bài, Đông Anh, Yên Viên, Gia Lâm. 19h44', quả đạn tên lửa đầu tiên của Tiểu đoàn 78 - Trung đoàn Tên lửa 257 được phóng lên - cuộc chiến đấu 12 ngày và đêm của lực lượng phòng không ba thứ quân bảo vệ Hà Nội bắt đầu. 20h13', B.52 tiếp tục đánh phá. Một kíp chiến đấu của Tiểu đoàn 59 - Trung đoàn Tên lửa 261 đã phóng 2 quả đạn từ cự ly thích hợp hạ ngay 1 máy bay B.52. Đây là chiếc B.52 đầu tiên bị bắn rơi tại chỗ trên bầu trời Hà Nội, cách trận địa chưa đầy 10km. Thắng lợi ngay trong đêm đầu tiên, hạ gục tại chỗ "Siêu pháo đài bay B.52" - thần tượng của không lực Hoa Kỳ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về tư tưởng và tác chiến, giải tỏa những 10 lắng, băn khoăn của Bộ Chính trị, Bộ Tổng Tư lệnh và tất cả cán bộ, chiến sĩ trực tiếp chiến đấu bảo vệ Hà Nội vì cả 9 trận đánh cấp tiểu đoàn trong đợt đầu tiên đều chưa thành công.
Suốt đêm 18 đến rạng ngày 19/12, quân Mỹ huy động 90 lần chiếc B.52 ném 3 đợt bom xuống Thủ đô Hà Nội. Xen kẽ các đợt đánh phá của B.52 có 8 lần chiếc F.l11 và 127 lần chiếc máy bay cường kích, bắn phá các khu vực nội, ngoại thành. Trong đêm đầu tiên Mỹ đã ném khoảng 6.600 quả bom xuống 1 35 địa điểm thuộc Thủ đô Hà Nội, 85 khu vực dân cư bị trúng bom, làm chết 300 người. Quân và dân ta anh dũng chiến dấu, bắn rơi 6 máy bay các loại, trong đó có 2 máy bay B.52 rơi tại chỗ.
Từ đêm 19/12 đến 29/12/1972: quân Mỹ liên tục tấn công Hà Nội và các địa phương khác ở miền Bắc, như: Hải Phòng, Thái Nguyên, Phú Thọ, Lạng Sơn, Bắc Giang, Yên Bái, Quảng Ninh... bằng máy bay chiến lược B.52, máy bay F.l 11 "cánh cụp cánh xòe", máy bay F4, F5 và các loại phương tiện tiến công đường không chiến thuật hiện đại khác.Trong 12 ngày đêm oanh liệt đó, quân và dân ta đều bắn rơi máy bay B.52 của Mỹ (trừ ngày 25/12, do bị thất bại nặng nề, lấy cớ nghỉ lễ Nhen, địch tạm ngừng tập kích để củng cố lực lượng, ổn định tinh thần và tìm thủ đoạn đánh phá mới).
Thành tích tiêu biểu: 21h 20/12, tại trận địa Vân Đồn (Hà Nội), các chiến sĩ Đại đội tự vệ của 3 nhà máy (Cơ khí Mai Động, Gỗ Hà Nội và Cơ khí Lương Yên), bằng 19 viên đạn 14,5 mm đã bắn rơi 1 máy bay F.111 của địch. Cũng trong ngày 20/12, Bộ đội tên lửa phòng không bảo vệ Hà Nội đã thực hiện trận đánh xuất sắc, chỉ 35 quả đạn, bắn rơi 7 chiếc B.52 (có 5 chiếc rơi tại chỗ); trận đánh đêm 20, rạng ngày 21/12, chỉ trong 9 phút (từ 5h2' đến 5h11'), các tiểu đoàn (57, 77, 79) với 6 quả đạn đã bắn rơi 4 chiếc B.52 (3 chiếc rơi tại chỗ). Trong trận đánh rạng sáng ngày 23/12, Bộ đội phòng không Hải Phòng lập công xuất sắc, Tiểu đoàn 82 (Đoàn Hạ Long) ở trận địa An Lão bắn rơi 1 chiếc B.52. Ngày 24/12: bắn rơi 5 máy bay: 1 chiếc B.52, 2 chiếc F4, 2 chiếc A7. Trong đó, bắn rơi "Siêu pháo đài bay B.52" vào đêm 24/12 là chiến công đầu của quân và dân Thái Nguyên.
Cao điểm nhất là ngày 26/12/1972, từ 22h05' đến 23h20', địch sử dụng 105 lần chiếc B.52 và 110 lần chiếc máy bay chiến thuật hộ tống đánh phá ồ ạt, liên tục, đồng thời từ nhiều hướng và tập trung vào nhiều mục tiêu, trên cả 3 khu vực Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên. Trận chiến đấu đêm 26/12/1972 diễn ra hơn một giờ, lực lượng phòng không ba thứ quân của Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên đã đánh một trận tiêu diệt lớn, bắn rơi 8 máy bay B.52 (riêng Hà Nội bắn rơi 5 chiếc, trong đó 4 chiếc rơi tại chỗ) và 10 máy bay chiến thuật khác. Trong trận này, lần đầu tiên Quân khu việt Bắc (Trung đoàn 256) bắn rơi 1 chiếc B.52 chỉ bằng pháo cao xạ 100 mm. Đây là trận đánh then chốt, quyết định nhất, bắn rơi nhiều máy bay B.52 nhất trong 9 ngày chiến đấu. Chiến thắng này đã làm suy sụp hẳn tinh thần và ý chí của giới cầm quyền Nhà Trắng và giặc lái Mỹ.
22h20' ngày 27/12/1972, đồng chí Phạm Tuân, phi công lái máy bay Mig21 được lệnh cất cánh bất ngờ từ sân bay Yên Bái, vượt qua hàng rào bảo vệ B.52 của máy bay tiêm kích F4, tiến về hướng đội hình B.52 của địch, tiếp cận mục tiêu ở cự ly gần, bắn rơi chiếc B.52 thứ 2 trong đội hình 3 chiếc của địch, đây là chiếc B.52 đầu tiên bị Không quân ta bắn rơi trong chiến dịch này.
Do bị tổn thất nặng nề trong 11 ngày liên tiếp, đến ngày 29/12, máy bay B.52 của địch chỉ dành một số địa phương vòng ngoài như nhà máy điện Cao Ngạn, Đồng Hỷ và khu vục cây số 4 Bắc Thái Nguyên, khu gang thép Thái Nguyên, khu Trại Cau, Đồng Mỏ (Lạng Sơn), Kim Anh (Vĩnh Phú) mà không dám tập trung lực lượng ở toạ độ lửa - Hà Nội nữa.
Về phía ta, các tiểu đoàn 72, 78, 79 bố trí ở vòng ngoài tham gia đánh B.52, đã bắn rơi 2 máy bay (l chiếc B.52, 1 chiếc F4). Đây là trận đánh kết thúc thắng lợi 12 ngày đêm bảo vệ Thủ đô Hà Nội nói riêng và miền Bắc nói chung cuối tháng 12/1972.
Trong 12 ngày đêm chiến đấu anh dũng, kiên cường, mưu trí, sáng tạo, quân và dân ta đã đánh bại cuộc tập kích chiến lược đường không quy mô lớn chưa từng có của đế quốc Mỹ, làm nên Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không". Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử "Siêu pháo đài Bay B.52" thất trận và không quân Mỹ phải chịu thiệt hại nặng nề nhất. Cụ thể, có 81 máy bay Mỹ bị ta bắn rơi, gồm: 34 chiếc B.52, 5 chiếc F.11A, 21 chiếc F4CE, 4 chiếc A6A, 12 chiếc A7, 1 chiếc F105D, 2 chiếc RA5C, 1 chiếc trực thăng HH53, 1 chiếc trinh sát không người lái 147SC. Phía Mỹ còn phải chịu tổn thất không bù đắp được là mất rất nhiều phi công.
Chỉ hơn 10 ngày, không quân Hoa Kỳ đã mất hàng trăm phi công, hầu hết là những phi công kỳ cựu, đã bay hàng nghìn giờ, là nguồn nhân lực tác chiến bậc cao của quân đội Mỹ.
Trước sự thất bại liên tiếp trong 12 ngày đêm đánh phá miền Bắc, 7h sáng ngày 30/12, Tổng thống Mỹ Ních-xơn buộc phải tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra và chấp nhận họp lại Hội nghị Pari về Việt Nam. Cuộc tập kích đường không chiến lược quy mô lớn bằng máy bay B.52 của đế quốc Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương miền Bắc kéo dài 12 ngày đêm đã bị thất bại hoàn toàn.
Cô gái làng hoa Ngọc Hà. Phía sau lưng cô là xác máy bay B.52 rơi xuống hồ Hữu Tiệp.
II. CƯỜNG ĐỘ TẤN CÔNG VÀ SỐ LƯỢNG BOM ĐẠN TRONG CUỘC TẬP KÍCH ĐƯỜNG KHÔNG CỦA ĐẾ QUỐC MỸ CUỐI THÁNG 12 NĂM 1972
1- Cường độ xuất kích của B.52 (máy bay tập kích chiến lược)
+ Đêm 18: 90 lần chiếc.
+ Đêm 19: 87 lần chiếc.
+ Đêm 20: 93 lần chiếc.
+ Đêm 21: 24 lần chiếc.
+ Đêm 22: 24 lần chiếc.
+ Đêm 22: 33 lần chiếc.
+ Đêm 24: 33 lần chiếc.
+ Đêm 25: Nghỉ Nô-en.
+ Đêm 26: 105 lần chiếc.
+ Đêm 27: 36 lần chiếc.
+ Đêm 28: 60 lần chiếc.
+ Đêm 29: 60 lần chiếc.
2- Cường độ xuất kích của không quân chiến thuật (các loại máy bay khác)
+ Cao nhất: 465 lần chiếc ( ngày 19/12).
+ Trung bình: 300-400 lần chiếc; riêng F.111 xuất kích trung bình 17-19 lần chiếc/ đêm, cao nhất 25 lần chiếc (đêm 20/12).
Tổng số lần xuất kích của các loại máy bay: 4.583 lần chiếc; trong đó: B.52 = 663 lần chiếc, (trung bình 55,3 lần chiếc/ ngày. Không quân chiến thuật: 3.920 lần chiếc (326,6 lần chiếc/ ngày).
- Tổng số bom đạn xấp xỉ 15.000 tấn bom đạn (Theo một số tài liệu nước ngoài: Mỹ sử dụng 209 máy bay B.52 xuất kích 740 lần chiếc tới mục tiêu đánh phá, ném 49.000 quả bom xấp xỉ 13.605 tấn vào 34 mục tiêu. Không quân chiến thuật đã xuất kích 2.123 lần chiếc trong đó có 1.082 lần chiếc ban đêm, 1.041 lần chiếc ban ngày). Riêng máy bay KC.135 (tiếp dầu) bay trên 1.300 lần chiếc để tiếp dầu trên không.
Đáng lưu ý: tất cả các loại máy bay và vũ khí mà Mỹ sử dụng trong thời kỳ này đều được cải tiến ở trình độ cao hơn nhiều so với cuộc chiến tranh phá hoại miền bắc lần thứ nhất.
II. MÁY BAY CHIẾN LƯỢC B.52 VÀ UY LỰC CỦA NÓ
"Pháo đài bay" B.52
1. Máy bay B.52 là “Siêu pháo đài bay” khổng lồ, có uy lực rất lớn
B.52 là loạt máy bay ném bom phản lực hạng nặng do hãng Bô inh sản xuất theo đơn đặt hàng của Lầu Năm Góc để làm nhiệm vụ ném bom hạt nhân trong chiến tranh toàn cầu.
- 2 chiếc mẫu (YB-52 và XB-52) bay thử lần đầu năm 1952.
- Loại B.52A: Sản xuất 3 chiếc, bay lần đầu tiên ngày 5 tháng 8 năm 1954.
- Loại B.52 B: Sản xuất 30 chiếc, bay lần đầu ngày 27 tháng 01 năm 1955.
- Loại B.52 C: Sản xuất 35 chiếc cũng trong năm 1955.
- Loại B.52 D: Sản xuất 170 chiếc, bay lần đầu ngày 14 tháng 5 năm 1956.
- Loại B.52 E: Sản xuất 100 chiếc, bay lần đầu ngày 3 tháng 10 năm 1957.
- Loại B.52 F: Sản xuất 89 chiếc, bay lần đầu tháng 5 năm 1958
- Loại B.52 G: Sản xuất 193 chiếc.
- Loại B.52 H L: Sản xuất 122 chiếc, bàn giao đợt cuối vào tháng 10 năm 1962 cho Bộ Tư lệnh không quân chiến đấu (SAC).
Qua 8 lần cải tiến, ngành công nghiệp hàng không quân sự Mỹ đã sản xuất tổng cộng 744 chiếc B.52 và hiện nay B.52 vẫn nằm trong trang bị của lực lượng máy bay ném bom chiến lược của quân đội Mỹ. Đến những năm đầu của thế kỷ 21, B.52 vẫn là vũ khí chiến lược và được trang bị tên lửa hành trình loại A6M-86B để tiến công từ xa với cự ly 2.500 km.
Cùng với B.52, chính quyền Mỹ còn trang bị cho quân đội loại máy bay ném bom hạng nặng B.1B và B.2A (tàng hình).
2. Tính năng kỹ chiến thuật B.52 G/H
- Kíp bay 6 người; Sải cánh 56,39m; Chiều dài 49,05; Chiều cao 12,40 m.
- Trọng lượng cất cánh Max: 221. 350 kg; Vmax = 960 km/h, Vtb = 820 km/h.
- Bay ở độ cao tối đa 16.765m thông thường 10.000 - 13.000m
- Tầm bay xa: 12.000 km (B.52 G), 16.000 km (B.52H)
- Tải trọng vũ khí: 18 - 30 tấn bom, có thể mang 12-20 quả tên lửa hành trình ALEM hoặc 8 tên lửa hành trình (tàng hình) ACM, 4 pháo 20 mm hoặc một pháo 20 mm 6 nòng. (Gấp 10 lần 1 máy bay cường kích).
- Trang bị: Thiết bị tác chiến điện tử AN/ALQ 117, 122, 153, 172, (12-16 máy gây nhiễu tích cực).
- Tên lửa chống ra đa HARM; thiết bị phóng nhiễu tiêu cực ALE 24 (21 bộ), thiết bị gây nhiễu hồng ngoại (12 bộ) AL-20. Hệ thống quan sát vô tuyến truyền hình AVQ-22 và quan sát hồng ngoại ELIR AAQ-6, hệ thống dẫn đường từ vệ tinh NAVSTAR. Hệ thống quan sát quang điện tử AN/AQS-151, Ra đa cảnh giới ALR-46, máy tính điện tử ASQ-151, ASQ-38 ...
- B-52 có thể bay liên tục 9 giờ không cần tiếp dầu, nếu được tiếp dầu còn có thể bay xa hơn hoặc có thể vượt chặng đường 18.000 - 20.000 km.
- Ở chiến trường Việt Nam, không quân Mỹ đều sử dụng các loại máy bay B.52 đã được cải tiến nhiều lần: (gồm 4 loại B.52 D, F, G, H) để tăng số lượng bom mang theo và khả năng tác chiến điện tử.
III. SỐ LƯỢNG MÁY BAY B52 BỊ BẮN RƠI
Sau 12 ngày đêm chiến đấu anh dũng tuyệt vời từ 18 đến 30/12/1972, quân và dân ta đã bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 “pháo đài bay” B-52 (riêng Hà Nội bắn rơi 25 chiếc B-52), 5 máy bay F.111, 42 máy bay chiến thuật các loại,…; tiêu diệt và bắt sống gần 100 phi công; buộc Tổng thống Mỹ Ních-xơn phải tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra và họp lại Hội nghị Pari về Việt Nam.
Thần tượng “pháo đài bay” B-52 sụp đổ thảm hại. Ý đồ "đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá" của Ních-xơn sớm tan thành mây khói.
IV. TẬP THỂ VÀ CÁ NHÂN ĐƯỢC TẶNG DANH HIỆU ANH HÙNG LLVT TRONG CUỘC CHIẾN ĐẤU 12 NGÀY ĐÊM CHỐNG TẬP KÍCH ĐƯỜNG KHÔNG CỦA ĐẾ QUỐC MỸ
1. Tập thể
Binh chủng Tên lửa; Sư đoàn Phòng không Hà Nội (Sư đoàn 361); Trung đoàn Tên lửa 261; Trung đoàn Tên lửa 257; Trung đoàn Ra đa 291; Tiểu đoàn 77-Trung đoàn Tên lửa 257; Đại đội 45 (nay là Trạm ra đa 45), Trung đoàn Rađa 293; Đại đội 25 (nay là Trạm ra đa 25), Trung đoàn Rađa 295; Đại đội 37 (nay là Trạm ra đa 37), Trung đoàn Rađa 293.
Thủ đô Hà Nội, với thành tích to lớn trong 2 cuộc kháng chiến, đặc biệt là chiến công rực rỡ “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không”, được phong tặng danh hiệu “Thủ đô anh hùng”.
2. Cá nhân
- Nguyễn Văn Phiệt, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 57, Trung đoàn Tên lửa 261;
- Phạm Tuân, Phi công lái máy bay Mig21;
- Liệt sĩ Vũ Xuân Thiều, Phi công lái máy bay Mig21;
- Nguyễn Đình Kiên, Đại đội trưởng kiêm Sĩ quan điều khiển; đồng chí Nguyễn Lành, nguyên sĩ quan điều khiển
Theo tài liệu của Ban Tuyên giáo Trung ương